Khả Năng Thanh Toán Của Doanh Nghiệp - Cách Tính Và Phân Tích

Phân tích tài chính Tác giả Phân tích tài chính 19/07/2024 56 phút đọc

Khả năng thanh toán nợ phản ánh khả năng trả nợ của một công ty và được đo bằng tỷ lệ giá trị tài sản hiện tại của công ty trên tổng số nợ mà công ty đã thực hiện.

Trong bài viết này, hãy cùng Phân Tích Tài Chính điểm qua 5 chỉ số đo lường khả năng thanh toán của một công ty và những điều cần biết khi công ty mất khả năng thanh toán.

»» Tham khảo: Khóa Học Phân Tích Tài Chính Doanh Nghiệp

I. Khả Năng Thanh Toán Là Gì?

Khả năng thanh toán phản ánh năng lực đáp ứng các khoản nợ phải trả của Doanh nghiệp.

Khả năng thanh toán được đo bằng lượng giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp so với tổng số nợ mà doanh nghiệp đang gánh chịu.

Khả năng thanh toán của doanh nghiệp còn thể hiện qua khả năng thanh khoản của tài sản để ứng phó với các khoản nợ ngắn hạn.

Khi đánh giá khả năng thanh toán, người phân tích báo cáo tài chính phải trả lời được các câu hỏi sau:

  • Doanh nghiệp có đảm bảo khả năng thanh toán nợ không?
  • Khả năng thanh toán và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp cao hay thấp so với bình quân ngành, bình quân khu vực, hay so với đối thủ cạnh tranh và so với các doanh nghiệp tiên tiến, điển hình?
  • Tình hình biến động (tăng, giảm) khả năng thanh toán và khả năng thanh khoản trong kỳ của doanh nghiệp?
  • Xu hướng biến động khả năng thanh toán của doanh nghiệp theo thời gian?
  • Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán của Doanh nghiệp

II. Nhóm Chỉ Số Khả Năng Thanh Toán - Cách Tính Và Phân Tích

Chỉ số khả năng thanh toán

1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán tổng quát (chung) của doanh nghiệp. Có thể nói, đây là chỉ tiêu khái quát nhất phản ánh năng lực (khả năng) thanh toán của một doanh nghiệp.

Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng số tài sản/Tổng số Nợ phải trả

Chỉ tiêu này cho biết với tổng số tài sản hiện có, doanh nghiệp có đảm bảo trả nợ được các khoản nợ phải trả không? Nói cách khác, một đồng nợ phải trả của doanh nghiệp được đảm bảo bởi mấy đồng tài sản.

Về mặt lý thuyết, khi trị số chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán tổng quát” bằng một, doanh nghiệp vẫn bảo đảm khả năng thanh toán tổng quát; nếu trị số của chỉ tiêu này lớn hơn 1, doanh nghiệp có thừa khả năng thanh toán tổng quát.

Nếu trị số này nhỏ hơn 1, doanh nghiệp không bảo đảm được khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả.

2. Khả năng thanh toán nhanh

Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhà quản lý cũng cần biết hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Ở tỷ lệ này, hàng tồn kho sẽ bị loại bỏ bởi vì trong số các tài sản lưu động, hàng tồn kho được coi là một loại tài sản kém thanh khoản. Tỷ lệ này cho thấy doanh nghiệp có thể thanh toán tốt như thế nào mà không cần thanh lý gấp hàng tồn kho.

Các doanh nghiệp khi tiến hành thanh toán các khoản nợ thì trước tiến doanh nghiệp phải chuyển các tài sản ngắn hạn thành tiền nhưng trong các loại tài sản của doanh nghiệp thì không phải tài sản nào cũng có khả năng hoán chuyển thành tiền nhanh mà có những tài sản tồn kho nên loại bỏ ra khỏi tử số vì đó là bộ phận dự trữ thường xuyên cho kinh doanh mà giá trị của nó và thời gian hoán chuyển thành tiền kém nhất, chẳng hạn như vật tư hàng hóa tồn kho (các loại vật tư công cụ, dụng cụ, thành phẩm tồn kho…) thì không thể chuyển đổi ngay thành tiền, do đó nó có khả năng thanh toán kém nhất.

Tùy theo mức độ kịp thời của việc thanh toán nợ hệ số khả năng thanh toán nhanh có thể được xác định theo 2 công thức sau:

Hnhanh = (Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho)/Nợ ngắn hạn

Hay

Hnhanh = (Tiền và các khoản TĐT – Đầu tư tài chính ngắn hạn + Các khoản phải thu ngắn hạn) /Nợ ngắn hạn

- Hnhanh thông thường biến động từ 0,5 đến 1, lúc đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đánh giá là khả quan.

Tuy nhiên, để kết luận hệ số này tốt hay xấu thì cần phải xem xét đến bản chất và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp.

- Nếu hệ số này < 0,5 thì doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ và để trả nợ thì doanh nghiệp có thể phải bán gấp hàng hóa, tài sản để trả nợ. Nhưng nếu hệ số này quá cao thì cũng không tốt bởi vì tiền mặt tại quỹ nhiều hoặc các khoản phải thu lớn sẽ ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sử dụng vốn.

Khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp cao hay thấp, tình hình tài chính được đánh giá tốt hay xấu tùy thuộc vào lượng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn lớn hay bé, nợ ngắn hạn nhỏ hay lớn. Tuy nhiên khi sử dụng hệ số thanh toán nhanh phải lưu ý một số điểm:

Thứ nhất, công thức này vô hình chung đã triệt tiêu năng lực thanh toán “không dùng tiền” của doanh nghiệp trong việc trả các khoản nợ đến hạn.

Tức là chưa tính đến khả năng doanh nghiệp dùng một lượng hàng hóa mà thị trường có nhu cầu cao có thể bán ngay được hoặc xuất đối lưu; cũng như chưa tính đến khoản phải thu mà khi cần đơn vị có thể thỏa thuận để bù trừ khoản nợ phải trả cho các chủ nợ.

Và như vậy sẽ là sai lầm khi lượng tiền của doanh nghiệp có thể ít, khoản đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp không có nhưng lượng hàng hóa, thành phẩm tồn kho có thể bán ngay bất cứ lúc nào lớn, khoản phải thu có thể bù trừ ngay được cho các khoản phải trả nhiều, mà lại đánh giá khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp thấp.

Thứ hai, nợ ngắn hạn có thể lớn nhưng chưa cần thanh toán ngay thì khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp cũng có thể được coi là lớn. Nợ ngắn hạn chưa đến hạn trả mà buộc doanh nghiệp phải tính đến khả năng trả nợ ngay trong khi nợ dài hạn và nợ khác phải trả hoặc quá hạn trả lại không tính đến thì sẽ là không hợp lý.
Nhìn chung hệ số này bằng 1 là lý tưởng nhất. Tuy nhiên giống như hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, độ lớn của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh toán các món nợ trong kỳ.

Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tốt hơn rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên do các chi phí trả trước cũng như các khoản phải thu … có quá trình chuyển đổi sang tiền mặt chậm hơn nhiều nên có thể sử dụng chỉ tiêu khác để bổ sung.

3. Khả năng thanh toán lãi vay

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp và mức độ rủi ro mà các chủ nợ có thể gặp phải.

Công thức tính:

Tỷ lệ chi trả lãi vay = Lợi nhuận lãi vay và thuế/ Lãi vay phải trả cho kỳ hiện tại

Hệ số thanh toán lãi vay là một trong những tiêu chí mà người cho vay (ngân hàng) rất quan tâm khi đánh giá một khoản vay của khách hàng.

Vì vậy, chỉ tiêu này ảnh hưởng rất lớn đến xếp hạng tín nhiệm và lãi suất cho vay của doanh nghiệp. Việc đảm bảo trả lãi cho khoản vay đúng hạn cũng cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động tốt và ngược lại.

4. Khả năng thanh toán hiện hành

Đây là khả năng nên được đánh giá theo tỷ trọng bình quân của các doanh nghiệp cùng ngành. Ngoài ra, căn cứ quan trọng để đánh giá là so sánh với hệ số đủ khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong các kỳ trước.

Khả năng này được tính như sau:

Tỷ lệ hiện tại = Tài sản ngắn hạn/ Nợ ngắn hạn

Tỷ lệ hiện tại (Hht) đại diện cho:

- Hht đặc biệt thấp < 1: Thể hiện khả năng thanh toán của công ty yếu, đồng thời là tín hiệu cảnh báo công ty có thể gặp khó khăn về tài chính khi thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Khi Hht giảm dần về 0, doanh nghiệp càng mất khả năng thanh toán, làm tăng nguy cơ phá sản.

- Hht cao > 1: Chứng tỏ công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn cao. Tỷ số này càng cao thì khả năng thanh khoản và khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tỷ lệ quá cao không nhất thiết cũng phản ánh tính thanh khoản của doanh nghiệp. Do nguồn lực tài chính có thể không được sử dụng tốt, hoặc có quá nhiều cổ phiếu, để khi thị trường biến động, các cổ phiếu không thể được bán và thực hiện chuyển sang tiền.

5. Khả năng thanh toán ngắn hạn

Khả năng thanh toán hiện hành của doanh nghiệp được định nghĩa là mối quan hệ giữa toàn bộ tài sản có thời gian chu chuyển ngắn của doanh nghiệp với nợ ngắn hạn.

Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở trạng thái động, do dòng tiền thuần do hoạt động kinh doanh tạo ra được tạo ra trong kỳ chứ không phải là số dư tại một thời điểm nhất định.

Tỷ lệ này sẽ giúp các nhà quản lý đánh giá khả năng thanh toán các khoản vay đến hạn của chính doanh nghiệp mà không cần đến các nguồn tài trợ khác.

Chỉ tiêu này được tính như sau:

Hhh = Tài sản/Nợ ngắn hạn

H ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn

- Nếu Hn.h < 1: Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là không tốt, tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp không đủ để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ đến hạn phải trả.

- Nếu Hn.h > 1: Doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ vay và nếu hệ số này gia tăng thì nó phản ánh mức độ mà doanh nghiệp đảm bảo chi trả các khoản nợ là càng cao, rủi ro phá sản của doanh nghiệp thấp, tình hình tài chính được đánh giá là tốt, nhưng nếu hệ số này quá cao thì không tốt, nó cho thấy sự dồi dào của doanh nghiệp trong việc thanh toán nhưng lại giảm hiệu quả sử dụng vốn do doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn và có thể dẫn đến 1 tình hình tài chính xấu. Khả năng thanh toán hiện hành hay còn gọi là hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn.

Hệ số này thể hiện mức độ bảo đảm của TSNH với NNH. Nợ ngắn hạn là những khoản nợ mà doanh nghiệp buộc phải thanh toán trong kỳ, do đó doanh nghiệp phải sử dụng những tài sản mà doanh nghiệp thực có và doanh nghiệp tiến hành hoán chuyển những tài sản này thành tiền và dùng số tiền đó để thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Những tài sản có khả năng hoán chuyển thành tiền nhanh nhất là những tài sản ngắn hạn, đó là những tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý và thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp.

- Nếu Hhh tiến dần về 0 thì doanh nghiệp khó có khả năng có thể trả được nợ, tình hình tài chính của doanh nghiệp đang gặp khó khăn và doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.

Hạn chế của chỉ tiêu này là phần tử số (tài sản ngắn hạn) bao gồm nhiều loại kể cả những loại tài sản khó có thể hoán chuyển thành tiền để trả nợ vay như các khoản nợ phải thu khó đòi, hàng tồn kho kém phẩm chất, các khoản thiệt hại chờ xử lý.

- Theo kinh nghiệm của các nhà phân tích, người ta nhân thấy rằng nếu hệ số này = 2 là tốt nhất. Tuy nhiên số liệu này chỉ mang tính chất tham khảo bởi vì nó biến động tùy thuộc vào nhiều nhân tố và điều kiện khác nhau của từng ngành.Tuy nhiên ở đây xuất hiện mâu thuẫn:

Thứ nhất, khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, không thể nói một cách đơn giản tình hình tài chính của doanh nghiệp là tốt nếu khả năng thanh toán ngắn hạn lớn.

Khả năng thanh toán ngắn hạn lớn có thể do: các khoản phải thu (tức nợ không đòi được hoặc không dùng để bù trừ được) vẫn còn lớn, hàng tồn kho lớn (tức nguyên vật liệu dự trữ quá lớn không dùng hết và hàng hóa, thành phẩm tồn kho không bán được không đối lưu được) tức là có thể có một lượng lớn.

Tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả, vì bộ phận này không vận động không sinh lời… Và khi đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp thực tế sẽ là không cao nếu không muốn nói là không có khả năng thanh toán.

Thứ hai, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn có thể được hình thành từ vốn vay dài hạn như tiền trả trước cho người bán; hoặc được hình thành từ nợ khác (như các khoản ký quỹ, ký cược…) hoặc được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu.

Chính vì thế có thể vốn vay ngắn hạn của doanh nghiệp nhỏ nhưng nợ dài hạn và nợ khác lớn. Nếu lấy tổng tài sản lưu động chia cho nợ ngắn hạn để nói lên khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp thì chẳng khác gì kiểu dùng nợ để trả nợ vay.

Chính vì vậy, không phải hệ số này càng lớn càng tốt. Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ngành nghề nào có tài sản lưu động chiếm tỷ trọng cao (chẳng hạn Thương mại) trong tổng tài sản thì hệ số này cao và ngược lại.

Cần chú ý rằng tuy 2 doanh nghiệp có thể có cùng hệ số khả năng thanh toán hiện hành nhưng có thể mỗi doanh nghiệp có điều kiện tài chính và tiến độ thanh toán các khoản nợ khác nhau vì nó phụ thuộc vào tài sản ngắn hạn dùng để trả nợ của từng doanh nghiệp.

Vì những hạn chế trên nên khi đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp các nhà phân tích thường kết hợp thêm hệ số khả năng thanh toán nhanh

6. Khả năng thanh toán tức thời

Chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời (Htt) chỉ xem xét các khoản có thể sử dụng để thanh toán nhanh nhất đó là tiền.

Khả năng thanh toán tức thời cho biết, với số tiền và các khoản tương đương tiền, doanh nghiệp có đảm bảo thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn hay không

Khả năng này là để đánh giá chặt chẽ hơn các khoản thanh toán của người bán, được tính như sau:

Tỷ lệ thanh toán tức thời = (Tiền + Các khoản tương đương tiền)/ Nợ ngắn hạn

Tiền và các khoản tương đương tiền bao gồm: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn và các khoản đầu tư ngắn hạn khác dễ thanh khoản trong thời hạn và không có rủi ro trọng yếu trong vòng 3 tháng.

So với các chỉ số thanh khoản khác ngắn hạn khác như chỉ số thanh toán hiện thời (current ratio), hay chỉ số thanh toán nhanh (quick ratio), chỉ số thanh toán tức thời đòi hỏi khắt khe hơn về tính thanh khoản.

Hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn bị loại khỏi công thức tính do không có gì bảo đảm là hai khoản này có thể chuyển nhanh chóng sang tiền để kịp đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn.

Nói chung hệ số này thường xuyên biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, giống như trường hợp của khả năng thanh toán hiện hành (khả năng thanh toán ngắn hạn) và khả năng thanh toán nhanh, để kết luận giá trị của hệ số thanh toán tức thời là tốt hay xấu ở một doanh nghiệp cụ thể còn cần xem xét đến bản chất kinh doanh và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp đó. Nhưng nếu hệ số này quá nhỏ thì nhất định doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.

Có rất ít doanh nghiệp có số tiền mặt và các khoản tương đương tiền đủ để đáp ứng toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn, do đó chỉ số thanh toán tiền mặt rất ít khi lớn hơn hay bằng 1. Điều này cũng không quá nghiêm trọng. Một doanh nghiệp giữ tiền mặt và các khoản tương đương tiền ở mức cao để bảo đảm chi trả các khoản nợ ngắn hạn là một việc làm không thực tế vì như vậy cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không biết sử dụng loại tài sản có tính thanh khoản cao này một cách có hiệu quả. Doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng số tiền và các khoản tương đương tiền này để tạo ra doanh thu cao hơn (ví dụ cho vay ngắn hạn).

Mặc dù chỉ số này phản ánh được mức thanh khoản cao nhất của tài sản doanh nghiệp, nhưng tính khả dụng của nó lại tương đối hạn chế. Người ta rất ít khi sử dụng chỉ số thanh toán tiền mặt trong các báo cáo tài chính và các nhà phân tích cũng ít khi dùng chỉ số này trong phân tích cơ bản (fundamental analysis).

Tỷ lệ này đặc biệt hữu ích khi đánh giá tính thanh khoản của doanh nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế ổn định, việc sử dụng các tỷ lệ tức thời để đánh giá khả năng thanh khoản của một công ty có thể gây hiểu nhầm. Vì một doanh nghiệp có nhiều nguồn tài chính chưa được sử dụng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đó sử dụng vốn không hiệu quả.

Tuy nhiên các hệ số trên chỉ được xem xét trong trạng thái tĩnh nên chưa đủ để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, cần sử dụng các chỉ tiêu mang tính chất quản trị để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp.

+ Số vòng quay của khoản phải thu khách hàng

Chỉ tiêu “Số vòng quay phải thu khách hàng” phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền. Trị giá chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tốc độ thu hồi khoản phải thu càng nhanh. Điều này được đánh giá là tốt vì khả năng hoán chuyển thành tiền nhanh, do vậy đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ.

Khi phân tích cũng chú ý là hệ số này quá cao có thể không tốt vì có thể doanh nghiệp thắt chặt tín dụng bán hàng, do vậy ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá khả năng chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền cần xem xét đến chính sách tín dụng bán hàng của doanh nghiệp.

Xem thêm: Cách tính vòng quay khoản phải thu

+ Số ngày của một chu kỳ nợ ( Số ngày của doanh thu chưa thu )

Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân của một chu kỳ nợ, từ khi bán hàng đến khi thu tiền. Chỉ tiêu này nếu so sánh với kỳ hạn tín dụng của doanh nghiệp áp dụng cho từng khách hàng sẽ đánh giá tình hình thu hồi nợ và khả năng hoán chuyển thành tiền.

+ Số vòng quay của hàng tồn kho (H hàng )

Chỉ tiêu này đánh giá khả năng luân chuyển hàng tồn kho của doanh nghiệp. Trị giá chỉ tiêu này càng cao thì công việc kinh doanh được đánh giá là tốt, khả năng hoán chuyển tài sản này thành tiền cao.

Khi phân tích chỉ tiêu này cần quan tâm đến đặc điểm mặt hàng kinh doanh và ngành nghề kinh doanh. Nếu doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau và ngành nghề khác biệt thì cần tính toán số vòng quay cho từng nhóm, ngành hàng.

+ Số ngày của một vòng quay kho hàng (N hàng )

Ngoài các chỉ tiêu trên, nhà phân tích còn có thể sử dụng số liệu chi tiết từ báo cáo công nợ để làm rõ tình hình thu nợ, trả nợ; qua đó làm rõ hơn khả năng thanh toán. Các chỉ tiêu bổ sung cho nội dung phân tích này như sau:

H1 = Nợ phải thu, phải trả mất khả năng thanh toán/ Tổng số nợ phải thu, phải trả

H2 = Tổng số nợ phải thu, phải trả quá hạn/ Tổng số nợ phải thu, phải trả

H3 = Tổng số nợ đã thu, đã trả trong kỳ / Số nợ đầu kỳ + số nợ phát sinh trong kỳ

III. Mất Khả Năng Thanh Toán

Mất khả năng thanh toán

1. Mất khả năng thanh toán là gì? Thời điểm mất khả năng thanh toán

Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nếu không thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn.

2. Nguyên nhân doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

  • Các công ty có kế toán hoặc quản lý nguồn nhân lực không hiệu quả.
  • Chi phí nhà cung cấp tăng khiến các doanh nghiệp phải trả giá cao hơn cho hàng hóa và dịch vụ. Từ đó, doanh nghiệp tăng giá sản phẩm để bù vào chi phí sản xuất tăng.
  • Người tiêu dùng chọn sử dụng hàng hóa, dịch vụ ở nơi rẻ hơn. Vì thế doanh nghiệp mất khách hàng, dẫn đến mất doanh thu và không thể thanh toán các khoản nợ.
  • Một số nguyên nhân khác như hàng hóa và dịch vụ do công ty cung cấp không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, kiện tụng với khách hàng hoặc đối tác kinh doanh.

Ví dụ về doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

Trưởng phòng kế toán có thể làm không đúng ngân sách của công ty dẫn đến bội chi. Chi phí tăng nhanh, dòng tiền ra quá nhiều và dòng tiền vào không đủ bù đắp cho sự thiếu hụt khiến công ty mất khả năng thanh toán.

3. Ngân hàng mất khả năng thanh toán khi nào?

Một ngân hàng được coi là mất khả năng thanh toán khi không có khả năng trả nợ trong vòng 3 tháng kể từ ngày đến hạn trả nợ.

Việc tuân thủ các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng và cần thiết. Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp là thước đo được chính doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư sử dụng để đánh giá uy tín và sức mạnh tài chính của tổ chức.

IV. Phân Tích Khả Năng Thanh Toán Theo Thời Gian

Phân tích khả năng thanh toán theo thời gian nhằm mục đích cung cấp cho người sử dụng thông tin nắm được năng lực thanh toán trước mắt và năng lực thanh toán lâu dài của doanh nghiệp.

Trường hợp doanh nghiệp không bảo đảm khả năng thanh toán, người sử dụng thông tin phải tìm kế sách để huy động nguồn tài chính kịp thời bảo đảm cho việc thanh toán. Khả năng thanh toán theo thời gian của doanh nghiệp được bảo đảm khi năng lực tài chính của doanh nghiệp đủ để đáp ứng các khoản nợ phải trả tương ứng trong khoảng thời gian đó.

Phân tích khả năng thanh toán theo thời gian của doanh nghiệp được thực hiện bằng cách xem xét, đối chiếu giữa một bên là các khoản có thể sử dụng để thanh toán với một bên là các khoản phải thanh toán;

Trong đó, năng lực tài chính sử dụng để thanh toán bao gồm bộ phận giá trị tài sản hiện có tại thời điểm xem xét và bộ phận tài sản doanh nghiệp sẽ thu được trong tương lai, kể cả bộ phận tài sản hình thành thông qua quá trình thanh toán.

Các bộ phận tài sản này đều được xem xét theo khả năng chuyển đổi thành tiền, tức là xét tới khả năng đáp ứng thực sự đối với các khoản nợ phải trả.

Việc xem xét, đối chiếu này được tiến hành cho cả khoảng thời gian nghiên cứu cũng như từng giai đoạn tuỳ thuộc vào nhu cầu thông tin của quản lý và lĩnh vực kinh doanh và được biểu hiện thông qua chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán theo thời gian” sau đây:

Hệ số khả năng thanh toán theo thời gian

Chỉ tiêu trên được tính cho cả thời kỳ hoặc thời gian trước mắt (thanh toán ngay, thanh toán trong tháng tới, quý tới,…) hay thời gian lâu dài (thanh toán trong năm tới, 2 năm tới,…)

Do năng lực tài chính phản ánh các tài khoản có thể sử dụng để thanh toán được xác định theo khả năng chuyển đổi thành tiền hiện tại và tương lai nên trong trường hợp trị số của chi tiêu “Hệ số khả năng thanh toán theo thời gian” lớn hơn hoặc bằng một, cho thấy doanh nghiệp bảo đảm và có thừa khả năng thanh toán trong khoảng thời gian đó và ngược lại; khi trị số của chỉ tiêu này nhỏ hơn hoặc bằng 1, doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán.

Khi “Hệ số khả năng thanh toán theo thời gian” bằng không, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hoàn toàn và nguy cơ phá sản là chắc chắn nếu như doanh nghiệp không sớm tìm các giải pháp tài chính thích hợp để đảm bảo thanh toán các khoản nợ đến hạn, nợ quá hạn thanh toán trong thời gian 3 tháng tính từ ngày đáo hạn.

Khi xác định các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán theo thời gian cần chú ý:

Phần năng lực tài chính thừa (phần chênh lệch giữa các khoản có thể sử dụng để thanh toán so với các khoản phải thanh toán) của gian đoạn trước được cộng dồn giai đoạn sau để tính toán chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán theo thời gian” (tuần chuyển qua tháng, tháng chuyển qua quý,..).

Tuy nhiên, phần năng lực tài chính dư thừa của giai đoạn sau lại không được chuyển qua giai đoạn trước khi xây dựng chỉ tiêu này (tháng không được chuyển qua tuần, quý không được chuyển qua tháng,…)

Nhằm phục vụ cho việc phân tích khả năng thanh toán theo thời gian, bên cạnh việc sử dụng tài liệu trên bảng cân đối kế toán, các nhà phân tích còn phải kết hợp sử dụng thông tin chi tiết trên bảng thuyết minh báo cáo tài chính và các tài liệu kế toán chi tiết khác có liên quan (với phân tích nội bộ) để tiến hành phân loại, sắp xếp các khoản nợ phải trả ( nhu cầu thanh toán) và các khoản có thể sử dụng để thanh toán theo thời gian.

Đối với nhu cầu thanh toán, các chỉ tiêu được sắp xếp theo mức độ khẩn trương của việc thanh toán như: các khoản thanh toán ngay, các khoản phải thanh toán trong thời gian tới. Đối với năng lực tài chính, các chỉ tiêu lại được xếp theo khả năng huy động như: Các khoản có thể huy động ngay để thanh toán, các khoản có thể huy động để thanh toán trong thời gian tới,..

Để thuận tiện cho việc phân tích khả năng thanh toán theo thời gian, có thể lập bảng phân tích theo mẫu như sau:

Bảng phân tích khả năng thanh toán theo thời gian
Bảng phân tích khả năng thanh toán theo thời gian

V. Phân Tích Rủi Ro Về Khả Năng Thanh Toán Trong Doanh Nghiệp

Khác với việc phân tích khả năng thanh toán thông thường với mục đích xem xét khả năng thanh toán ngắn hạn, dài hạn và khả năng thanh toán theo thời gian, phân tích rủi ro về khả năng thanh toán lại nhằm mục đích xác định và cảnh báo khả năng có thể xảy ra rủi ro trong thanh toán nợ.

Từ đó, có các quyết định ngăn ngừa kịp thời, không để rủi ro thanh toán xảy ra., nhất là rủi ro về thanh toán nợ đến hạn, nợ quá hạn - đặc biệt là những khoản nợ quá hạn trong vòng 3 tháng tính từ ngày đến hạn thanh toán. khóa học tài chính cho người không chuyên

Việc phân tích rủi ro về khả năng thanh toán được tiến hành bằng cách tính ra trị số của các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán như: "Hệ số khả năng thanh toán tổng quát", "Hệ số khả năng thanh toán theo thời gian", Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, … Rồi căn cứ vào trị số của từng chỉ tiêu cũng như xu hướng biến động của từng chỉ tiêu để đánh giá năng lực thanh toán hiện tại và tiến hành cảnh báo rủi ro thanh toán có thể xảy ra trong tương lai.

Xem thêm:

Bài viết phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp được biên soạn bởi đội ngũ chuyên gia của Phân tích tài chính. Cảm ơn sự theo dõi của các bạn!. Nếu các bạn muốn tìm hiểu sâu hơn về báo cáo tài chính các bạn nên đăng ký khóa học tài chính cho người không chuyên, trong khóa học này sẽ được những chuyên gia về tài chính hướng dẫn chi tiết.

Phân tích tài chính
Tác giả Phân tích tài chính Admin
Bài viết trước Chỉ Số Vòng Quay Khoản Phải Trả - Cách Tính, Ý Nghĩa

Chỉ Số Vòng Quay Khoản Phải Trả - Cách Tính, Ý Nghĩa

Bài viết tiếp theo

Phân Tích Vốn Chủ Sở Hữu: Cấu Trúc, Vai Trò và Ý Nghĩa Tài Chính

Phân Tích Vốn Chủ Sở Hữu: Cấu Trúc, Vai Trò và Ý Nghĩa Tài Chính
Viết bình luận
Thêm bình luận

Bài viết liên quan

Thông báo